Thứ Tư, 24 tháng 4, 2019

Kinh nghiệm du lịch Bắc Hà


Kinh nghiệm du lịch Bắc Hà


Cùng Phượt – Bắc Hà là một huyện thuộc Đông Bắc Lào Cai, có nhiều danh thắng cảnh đẹp mang đậm nét tự nhiên và lịch sử. Cùng với những cảnh sắc thiên nhiên ban tặng như các dãy núi hùng vĩ, sông suối và hang động, con người hiền hậu mến khách. Vùng đất này còn là nơi hội tụ các sắc màu văn hoá dân tộc những đặc sản riêng của Miền Tây Bắc, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt níu giữ chân khách thập phương khi đến du lịch Bắc Hà. Nơi đây được mệnh danh là cao nguyên trắng vùng Tây Bắc, mỗi dịp xuân về, hoa mận nở trắng cả các triền đồi, triền núi, cũng như trong các vườn nhà dân.

Cái tên Bắc Hà xuất phát từ cụm từ tiếng Tày “Pạc ha” nghĩa là “trăm bó gianh”. Thời thuộc Pháp, người Pháp ghi lại âm Pạc ha bằng chữ cái latinh thành Pakha. Người Việt đọc trại thành Bắc Hà rồi trở thành tên gọi chính thức của vùng đất này.

Ngoài ra Bắc Hà còn được ví với cái tên “cao nguyên trắng”, bởi vì trong những năm 1985 – 1986 trở về trước tại các khu vực miền núi việt Nam như Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Nghệ An người ta trồng khá nhiều loại cây gây nghiện như anh túc, cần sa với diện tích ước lượng khoảng 19.055 ha (Lào Cai giai đoạn 91-92 diện tích gieo trồng là 801 ha).

Toàn cảnh thị trấn Bắc Hà (Ảnh – Lukasz Gieranczyk)


Tuy nhiên, thời bấy giờ anh túc và cần sa được trồng để lấy rau và làm thuốc giảm đau và chống ho bởi người dân nơi đây và Bắc Hà cũng như các vùng khác cũng đã chứng kiến sự xuất hiện của những loại cây này như một loại dược liệu. Hơn nữa, do trong thời kỳ này nhà nước ta chưa có những chủ trương, luật pháp và biện pháp nhất quán về kiểm soát ma túy, khi thì nghiêm cấm, khi thì khuyến khích hoặc nới lỏng…Trong Hội đồng tương trợ kinh tế nước ta được phân công trồng cây thuốc phiện cung cấp làm nguyên liệu sản xuất tân dược…

Do vậy đến vụ mùa 1985 – 1986 diện tích gieo trồng cây thuốc phiện và cây cần sa đã lên tới 19.055 ha (cây cần sa 5 ha, cây thuốc phiện 19.050 ha). Diện tích thu hoạch tới 16.876 ha (cây thuốc phiện 16.871 ha). Sản lượng thuốc phiện thu hoạch 53.883 kg, cần sa 10.470 kg. Các tỉnh Hà Giang, Sơn La, Nghệ An, Yên Bái, Lai Châu, Cao Bằng là 6 tỉnh trồng và thu hoạch vào loại cao nhất trong cả nước…

Cho đến năm 1993, Nhà nước đã tập trung hơn vào việc vận động nhân dân bỏ trồng cây thuốc phiện. Kết quả về diện tích và sản lượng cây thuốc phiện đã giảm bớt. Nhưng lúc này vấn đề đặt ra là làm thế nào để có một giải pháp ổn định giúp họ không tái trồng các loại cây này nữa. Do vậy, Lào Cai đã triển khai dự án trồng mận để thay thế loại cây trên.

Hằng năm, khi mỗi dịp xuân về, Bắc Hà lại chìm ngập trong màu trắng của hoa mận, và cái tên “cao nguyên trắng” bắt nguồn từ đó.
Nên đi du lịch Bắc Hà vào thời gian nào?


Mỗi mùa hoa mận về, cả Bắc Hà như một cao nguyên trắng quyến rũ, thu hút rất nhiều khách đến du lịch Bắc Hà (Ảnh – Kiên TT)

Nếu chưa một lần đến Bắc Hà chắc nhiều bạn sẽ băn khoăn không biết nên đến với “Cao nguyên trắng” này vào thời điểm nào đúng không ? Cùng Phượt xin chia sẻ với các bạn một số mốc thời gian đặc biệt để các bạn có thể tự sắp xếp cho mình một chuyến du lịch tới đây nhé
Phương tiện đi và đến Bắc Hà


Đường đi Bắc Hà cũng khá dễ do không có quá nhiều đèo dốc, các bạn có thể tự đi bằng phương tiện cá nhân (Ảnh – La-Thailande-et-l-Asie)
Đi từ Hà Nội – Bắc Hà

Cách Lào Cai khoảng 70km theo hướng từ Lào Cai về Hà Nội, và cách Hà Nội khoảng 300km nên để đến Bắc Hà bằng ô tô các bạn có 2 sự lựa chọn
Bắt xe đi Bắc Hà trực tiếp từ Hà Nội, các xe này sẽ xuất phát từ bến xe Mỹ Đình. Hiện đang có 2 nhà xe khai thác tuyến này là Hải Vân và Sao Mai, nhà xe Sao Mai có xuất phát cả từ Hải Phòng nên các bạn cũng có thể đi trực tiếp Hải Phòng – Bắc Hà. Các bạn có thể tìm thấy thông tin liên hệ của 2 nhà xe này trong bài viết Xe khách chất lượng cao đi Bắc Hà
Đi từ Hà Nội lên Lào Cai rồi từ Lào Cai đi Bắc Hà, để đi từ Hà Nội lên Lào Cai các bạn có thể thêm lựa chọn đi bằng tàu hỏa. Từ Bến xe Lào Cai hàng ngày có rất nhiều chuyến xe đi Bắc Hà, thường các xe này khởi hành từ sáng cho đến khoảng 3h chiều nên các bạn thoải mái lựa chọn thời gian cho phù hợp.
Phương tiện đi lại tại Bắc Hà

Bắc Hà khá nhỏ nên các bạn hoàn toàn có thể khám phá Bắc Hà bằng xe máy. 2 phương án để các bạn có thể lựa chọn là thuê xe ôm chở đến các địa điểm du lịch Bắc Hà hoặc thuê xe máy tại Bắc Hà để tự khám phá những địa điểm đó.

Trong một số trường hợp, nếu các bạn muốn kết hợp đi Bắc Hà rồi đi một vài địa điểm du lịch khác ở Lào Cai như Si Ma Cai, Y Tý hay Sa Pa thì các bạn nên chủ động mang xe máy theo. Xe máy có thể gửi bằng tàu hỏa tới ga Lào Cai rồi từ Lào Cai các bạn đi tới Bắc Hà bằng phương tiện của mình.
Đi từ Bắc Hà đi Sapa

Từ Bến xe Bắc Hà các bạn có thể tìm xe đi Sa Pa hoặc xe đi Lào Cai (rồi nối chuyến đi tiếp Sa Pa). Phương án này dành cho các bạn muốn đi du lịch Bắc Hà và Sa Pa trong cùng một chuyến đi và không mang theo phương tiện cá nhân.
Lưu trú tại Bắc Hà


Ở homestay bạn sẽ được hòa mình vào cùng với cuộc sống của người dân địa phương, trải nghiệm những hình thức du lịch cộng đồng hấp dẫn (Ảnh – Xôi Homestay)
Khách sạn nhà nghỉ tại Bắc Hà

Trên địa bàn huyện Bắc Hà hiện có khoảng 50 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó 23 khách sạn, nhà nghỉ với gần 350 phòng và 26 hộ kinh doanh lưu trú tại gia (homestay) ở các xã, thị trấn (mỗi hộ đón tiếp tối đa từ 10 – 20 lượt khách/ngày). Bên cạnh đó, tại thị trấn Bắc Hà còn có 24 nhà hàng, cơ bản có thể đáp ứng được nhu cầu nghỉ, ăn uống của khoảng 2000 khách.

Homestay ở Bắc Hà

Những năm gần đây, homestay là một trong những loại hình du lịch phát triển mạnh tại Bắc Hà với gần 30 nhà nghỉ homestay, tập trung chủ yếu tại thôn Bản Phố (Bản Phố), thôn Na Lo (Tà Chải), thôn Trung Đô (Bảo Nhai), thôn Na Hối Tày và thôn Na Hối Nùng (Na Hối).


Các địa điểm du lịch ở Bắc Hà
Tổng hợp một số địa điểm du lịch ở Bắc Hà, các địa điểm du lịch hấp dẫn ở Bắc Hà cho các bạn đang hoặc sắp có kế hoạch du lịch Bắc Hà nhé.
Bản đồ du lịch Bắc Hà
Chợ phiên Bắc Hà


Những tấm vải sặc sỡ được bày bán sẵn ở chợ để người dân có thể mua về và may những trang phục mặc hàng ngày (Ảnh – cungphuot.info)

Tuần nào cũng vậy, cứ vào Chủ nhật là chợ phiên Bắc Hà diễn ra. Người dân kéo nhau về thị trấn Bắc Hà để họp chợ với muôn vàn mặt hàng khác nhau. Phiên chợ chủ yếu là nơi trao đổi, mua bán của bà con dân tộc thiểu số thuộc các bản, làng lân cận. Tại phiên chợ Bắc Hà, bạn có thể tìm thấy những món đồ khác lạ của người dân tộc, cũng như thưởng thức đặc sản vùng cao, như thắng cố, rượu ngô, rượu thóc hay trà hoa tam thất…


Chợ phiên ngoài là nơi để trao đổi, buôn bán hàng hóa cũng là dịp để đồng bào vùng cao gặp gỡ và trò chuyện với nhau thông qua những hoạt động trong chợ (Ảnh – cungphuot.info)

Nếu có cơ hội ngắm nhìn phiên chợ từ trên cao, bạn sẽ ngạc nhiên trước vẻ đẹp độc đáo của chợ. Những sắc màu rực rỡ trên trang phục của đồng bào các dân tộc nổi bật cả một vùng, như vườn hoa đang đua nở. Thời xa xưa, chợ phiên được mở trên một đồi thoải. Nhưng ngày nay, chợ đã được xây dựng khang trang và phân thành 4 khu vực, gồm khu bán đồ thổ cẩm; khu bán đồ tạp hóa, trang sức; khu bán gia súc và khu hàng ăn. Trong đó, tấp nập nhất phải kể đến những gian hàng bán đồ thổ cẩm và khu ăn uống tấp nập người vào ra.

Nếu đã đến chợ phiên Bắc Hà, chắc chắn bạn không thể bỏ qua món thắng cố, món ăn được coi là nổi tiếng nhất ở đây. Thắng cố hay còn gọi là Khấu Tha có nghĩa là “canh thịt”, được nấu từ nhiều loại thịt khác nhau, nhưng ngon nhất là thịt ngựa. Thịt được ướp với gia vị truyền thống, như thảo quả, địa điền, muối hạt… rồi đem xào nấu trên chiếc chảo lớn. Thịt được ninh trong nhiều giờ đến khi chín nhừ, hòa quyện với các gia vị, tạo nên hương thơm ngào ngạt, hấp dẫn.

Xem thêm bài viết : Hình ảnh về chợ phiên Bắc Hà
Dinh thự Hoàng A Tưởng


Bên ngoài dinh Hoàng A Tưởng (Ảnh – meomeoglw)

Khởi công năm 1914, song đến năm 1921, dinh Vua Mèo mới được hoàn thành. Chủ nhân của dinh là cha con Hoàng Yến Chao, Hoàng A Tưởng. Hoàng A Tưởng cũng là một thổ ti ở Bắc Hà cho đến ngày Lào Cai được giải phóng. Vì thế, ngoài cái tên dinh vua Mèo, người ta còn gọi đây là dinh Hoàng A Tưởng.

Tương truyền, dinh thự vua Mèo Hoàng A Tưởng đươc thầy Tàu về xem thế đất theo phong thủy. Dinh tọa lạc trên một quả đồi rộng ở châu Bắc Hà, nay là trung tâm thị trấn huyện Bắc Hà, phía sau và hai bên đều có núi, phía trước có một dòng suối uốn lượn và có núi thế mẹ bồng con.

Thế đất “tựa sơn đạp thủy” vững chãi, với mong muốn dòng họ được quyền quý, con cháu đời sau vinh hiển. Khu dịnh thự vua Mèo đã đạt đến trình độ thiết kế tinh xảo và nổi lên với quy mô đồ sộ tại vùng núi cao xa xôi, hùng vĩ như Bắc Hà.

Khu dinh thự vua Mèo là một kết cấu kiến trúc khá đặc biệt so với kiến trúc các dinh thự khác tại Việt Nam thời bấy giờ. Dinh vừa là nơi để ở của cha con Hoàng Yến Chao, Hoàng A Tưởng, song cũng là nơi làm việc và còn có chức năng pháo đài bảo vệ. Toàn bộ dinh có kiến trúc hình chữ nhật liên hoàn khép kín, với tổng diện tích 4.000m2, có tường rào bảo vệ, bốn phía tường đều có lỗ châu mai như pháo đài và có lính canh giữ.

Dinh được hai kiến trúc sư người Pháp và người Trung Quốc thiết kế. Vì vậy, kiến trúc của dinh có sự hòa quyện giữa kiến trúc Pháp hồi thế kỉ 17-18 và kiến trúc phương Đông. Trong đó nổi lên là các nét kiến trúc phương Tây được thể hiện trong những chi tiết như họa tiết cành nguyệt quế đắp nổi trên các cửa vào, biểu tượng cho hạnh phúc và thịnh vượng; cửa lan can trổ ra hình vòm, cột nhà thanh thoát, lan can, cầu thang vòng, hành lang lát gạch. Kết cấu bên trong của dinh khá đẹp. Qua cửa chính, bên trong là một khu sân rộng, xưa là nơi diễn ra các hoạt động chính của nhà thổ ti. Khu nhà chính phía cuối sân, có hai tầng với diện tích 420m2, thường là nơi hội họp của gia đình.


Và bên trong dinh (Ảnh – Duc Nam Nguyen)

Ngoài ra, khu dinh còn có các hạng mục khác như hai dãy nhà phụ ở hai bên, mỗi dãy nhà có hai tầng thấp hơn dãy nhà chính, gồm ba gian với diện tích 300m2. Đây là nơi sinh hoạt của các bà vợ Hoàng Yến Chao và Hoàng A Tưởng. Ngoài ra còn có thêm hai dãy nhà phụ hai tầng có kiến trúc đơn giản hơn dùng làm nơi ở cho quân lính, phu phen và người hầu. Dinh thự nhà họ Hoàng được xây dựng bằng đá vôi, cát, mật mía ở địa phương và ximăng, sắt thép chở từ Hà Nội và Lào Cai lên.

Dinh vua Mèo, một công trình pha trộn giữa kiến trúc của nhà cổ của người Pháp với kiến trúc phương Đông, song nổi trội hơn cả là kiến trúc phương Tây đã tạo cho dinh có vẻ đẹp riêng và nay trở thành địa chỉ du lịch không thể thiếu đối với du khách mỗi khi ghé thăm vùng cao nguyên Bắc Hà
Thung lũng hoa Thải Giàng Phố


Với những mảng màu rực rỡ, đây là một địa điểm rất tuyệt để có những bức ảnh siêu nghệ thuật (Ảnh – Thung lũng hoa Bắc Hà)

Cách trung tâm Bắc Hà khoảng 1,5km, thung lũng hoa Thải Giàng Phố do một đơn vị tư nhân đầu tư xây dựng để phát triển cùng với hình thức du lịch sinh thái.


Nếu muốn có những bức ảnh ngập tràn sắc tím, hãy đến đây vào khoảng tháng 10-11 (Ảnh – Thung lũng hoa Bắc Hà)

Thải Giàng Phố mùa nào cũng có hoa nở, xuyên suốt cả 4 mùa là hoa phong lan. Bên cạnh đó, ở đây còn được trồng rất nhiều loại hoa đường phố như cẩm tú cầu, tử la lan, cát tường, dạ yến ngọc thảo… Hai loại màu gắn kết tạo nên vẻ đẹp sặc sỡ cho Thải Giàng Phố là màu tím của oải hương và màu xanh vàng tươi của các loài lan.
Tam giác mạch ở Bắc Hà


Giờ đây, bạn có thể dễ dàng bắt gặp hoa tam giác mạch ở rất nhiều nơi trên vùng cao (Ảnh – Anh Huy)

Đã từ nhiều năm nay, hoa tam giác mạch không còn chỉ là “đặc sản” của vùng cao nguyên đá Hà Giang nữa. Nắm bắt được nhu cầu của khách du lịch, rất nhiều nơi ở vùng cao Tây và Đông Bắc đã trồng và biến tam giác mạch thành một sản phẩm du lịch của địa phương. Bắc Hà cũng vậy, để phát triển du lịch Bắc Hà đã tiến hành trồng khá nhiều cây tam giác mạch ở các điểm như Pờ Chồ 2 (xã Lầu Thí Ngài), Sân Bay 2 (xã Thải Giàng Phố) và Lả Dì Thang (xã Tả Van Chư). Khác với các địa phương khác, tam giác mạch ở Bắc Hà thường được trồng để kịp nở vào các dịp nghỉ lễ dài như 30-4, lễ hội đua ngựa Bắc Hà vào đầu tháng 6 và dịp nghỉ lễ Quốc khánh 2/9.
Bản Phố


Nấu rượu ngô ở Bản Phố, Bắc Hà (Ảnh – YanShots)

Là nơi sản sinh ra loại rượu Ngô mang lại danh tiếng cho Bắc Hà, bản Phố là một bản của người Mông nằm cách Bắc Hà khoảng 4km.

Nếu ai đến thăm Bắc Hà, Lào Cai, xin dành thời gian ghé thăm vùng đồng bào dân tộc Mông ở Bản Phố. Tại đây, bạn không chỉ được chiêm ngưỡng rừng mận tam hoa, đào đang chín đỏ, được thả mình nghỉ dưỡng, tận hưởng khí hậu mát mẻ, trong lành mà còn được thưởng thức hương vị ẩm thực vùng cao, tìm hiểu đời sống văn hóa dân tộc Mông qua việc thăm làng nghề nấu rượu ngô đặc sản Bản Phố.
Thắng cảnh Hang Tiên


Hang Tiên nằm trên tuyến du lịch Sông Chảy (Ảnh – UBND Huyện Bắc Hà)

Ngược dòng sông Chảy khoảng 6 km, từ trung tâm xã Bảo Nhai (huyện Bắc Hà) thuyền sẽ đưa bạn qua thành cổ Trung Đô với nhiều huyền thoại. Dòng sông Chảy đến đây thắt lại tạo thành dòng sâu, hiền hoà, len lỏi giữa hai bờ vách thành dựng đứng. Hai bên là cánh rừng nguyên sinh, phủ lên cảnh quan một miền khí hậu trong lành mát mẻ. Những dòng suối nhỏ từ trên cao đổ xuống như dải lụa, mở ảo, lất phất như mưa bay. Dòng nước như người thợ điêu khắc, lành nghề đục vào vách đá tạo nên những đài sen nổi, những nhũ đá muôn hình vạn dạng. Kia là chú voi đang cúi đầu uống nước, đây là con đại bàng cất cánh bay lên… và hội tụ lại thành bồn tắm thiên nhiên kỳ thú. Nơi đây chính là suối Tiên.

Qua suối Tiên 200 m là gặp hang lớn có sức chứa cả trăm người, cảm giác như một mê cung kỳ vỹ do thiên nhiên ban tặng, đã xếp thành tầng, thành lớp, tạo những rào luỹ tự nhiên. Ngược lên khoảng 500m là dòng nước nhỏ tí tách tạo thành nhũ đã như những tháp cổ to nhỏ với ánh sáng hiếm hoi hắt vào lấp lánh như ánh lân tinh. Nhiều khi phải đeo mình vào bờ đá, bám vào các rễ cây mới tới đường lên trời, du khách thấy mình thực sự được trải qua cuộc thăm viếng động Tiên. Sau thời gian du ngoạn, ta được tắm mình trong ánh nắng nơi đảo hoa, một hòn đảo nhỏ đầy hoa thơm cỏ lạ, sóng nước vỗ về dập dình bên bờ đá.

Hang Tiên gắn liền với huyền thoại ba nàng tiên; truyền khẩu rằng xưa kia có ba nàng tiên được vua cha cho đi thăm thú cõi trần gian, thây nơi đây sơn thuỷ hữu tình, các nàng không muốn trở về. Đã hết hạn, không thấy con về, ngọc hoàng nổi giận sai thiên lôi xuống trị tội. Ba nàng chốn trong hang cao hơn mặt nước khoảng 200m ngự trên vách thành do không chấp hành chiếu chỉ, thiên lôi nổi giận giẫm sạt một góc núi nơi ba nàng tiên trú ngụ. Biết không thoát khỏi trừng phạt, ba nàng đã gieo mình tự vẫn. Xác ngược dòng nước dìu xuống hạ lưu nơi trung tâm xã Bảo Nai hiện nay được dân làng vớt lên làm miếu thờ mang tên miếu Ba Cô. Tục truyền rất thiêng.


Truyện kể từ xa xưa có một nàng người Nùng tới hang Tiên, thấy nơi đây có ba chén tiên không biết ai đó đặt thờ. Nhiều du khách viếng thăm, vãn cảnh tắm suối Tiên đắm mình trong ánh ban mai bên đảo hoa và đều cầu mong các nàng ban phúc cho sắc đẹp, sức dai và phú quý. Nơi đây thực sự là một vịnh Hạ Long thu nhỏ, thắng cảnh hang tiên đang chờ đón du khách.
Đền Bắc Hà


Đền Bắc Hà (Ảnh – goneforawander)

Đền Bắc Hà được xây dựng từ cuối thế kỷ 19 thờ phụng hai anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật – người gốc Gia Lộc – Hải Dương. Xưa kia hai ông lên động Ngọc Uyển (vùng Bắc Hà ngày nay) xây dựng căn cứ quân sự và ổn định đời sống dân cư cả một vùng biên giới rộng lớn. Sách sử có ghi: “Đời vua Tự Đức năm thứ 7(1855) sắc phong các chúa Bầu (anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật) làm quốc công hùng cứ Bắc Hà, làm cho vùng đất này trở thành trù phú, dân cư đông đúc”. Sử nhà Nguyễn chép “Uy thế nhà Lê nổi là nhờ sức của anh em họ Vũ đã có công đánh giặc, bờ cõi được yên, nhân dân an lạc”.

Nhà Nguyễn cũng sắc phong anh linh các chúa Bầu làm tổng binh trấn thủ Tuyên Quang. Năm Gia Long thứ nhất xét công bách thần cả nước, quốc công Vũ Văn Mật được liệt vào hàng công thần đời Lê Trung Hưng. Để tưởng nhớ người anh hùng đã có công với vùng đất này, nhân dân nơi đây đã cùng nhau xây dựng lên ngôi đền này để hàng năm tưởng nhớ về người anh hùng đã có công với nước, một thời bình ổn vùng biên giới phía Tây Bắc của Tổ Quốc ta. Đền Bắc Hà có một ý nghĩa lịch sử sâu sắc và có tầm ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn hóa xã hội đối với nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Lễ hội chính đền Bắc Hà được tổ chức hàng năm vào ngày 7/7 (âm lịch) tại đền ngay thị trấn Bắc Hà, để tưởng nhớ ngày mất Gia quốc công Vũ Văn Uyên, người đã có công dẹp loạn an dân, hùng cứ vùng Tây Bắc thế kỷ 16-17. Từ đó đến nay ngôi đền là nơi để nhân dân trong vùng và du khách thập phương ngưỡng vọng người có công với dân với nước.
Các món ăn ngon và đặc sản Bắc Hà
Món ăn ngon ở Bắc Hà
Phở chua Bắc Hà


Phở chua Bắc Hà (Ảnh – Phạm Thúy Nga)

Phở truyền thống Bắc Hà gồm có phở chua, phở trộn và phở chan với nhiều nguyên liệu dùng chung, trong đó, phở chua nổi tiếng hơn cả và hầu như không “đụng hàng” ở bất kỳ đâu. Bánh phở đã tạo nên một sự khác biệt rất lớn không thể lẫn giữa Bắc Hà với các địa phương khác. Bánh phở ở đây không có màu trắng như thường thấy mà hơi nâu nâu, do được tráng từ loại gạo đỏ đặc biệt của địa phương, trồng ở xã Lùng Phình.

Với phở chua, yếu tố quyết định vị ngon chính là nước chua. Theo truyền thống, nước chua được làm từ việc ngâm, trộn rau cải với nước đường và chắt lọc được nước chua. Đây là cả một quy trình khắt khe, mà chất lượng của nước chua phụ thuộc rất lớn vào tay nghề của người làm. Ngày nay, nước chua được làm đơn giản hơn với nước giấm hoa quả nấu theo tỷ lệ nhất định.

Một bát phở chua gồm có bánh phở mới tráng còn ấm nóng, thịt lợn xá xíu, rau sống thái nhỏ, lạc và cuối cùng chan một ít nước chua. Trước khi ăn, bạn nên bỏ thêm một ít muối hạt vì phở chua sẽ hơi nhạt so với khẩu vị chung của mọi người. Phở chua phải ăn lạnh mới ngon, nên thích hợp ăn vào mùa hè. Mùa đông đến Bắc Hà bạn có thể gặp khó khăn khi muốn tìm món này vì nhiều hàng không bán phở chua.
Thắng cố Bắc Hà


Khắp các phiên chợ vùng cao, đôi khi bạn sẽ bắt gặp những chảo thắng cố như thế này (Ảnh – cungphuot.info)

Thắng cố là món ăn đặc trưng truyền thống của người H’mông, về sau được du nhập sang các dân tộc Kinh, Dao, Tày. Thịt nấu thắng cố theo truyền thống là thịt ngựa, về sau có thêm thịt bò, thịt trâu, thịt lợn. Món thắng cố ngựa ra đời từ cách đây gần 200 năm khi người Mông, Tày, Nùng về Bắc Hà cư trú. Tuy nhiên chỉ từ khi du lịch Bắc Hà phát triển mới được nhiều du khách biết tới.

Ngày xưa cách chế biến thắng cố tương đối khác so với ngày nay. Xưa kia tất cả thịt và nội tạng ngựa được làm sạch sẽ rồi cho vào chảo luộc chín, thái vuông. Sau đó người ta cho thịt vào chảo rồi cho các loại gia vị vào. Tiết ngựa cũng được luộc chín đặt lên bên trên nồi thịt rồi cho nước xâm xấp vào hầm nhừ.

Ngày nay sau khi mổ ngựa, làm sạch sẽ, tất cả thịt và lục phủ ngũ tạng của con ngựa sẽ được ướp gia vị. Thời gian ướp khoảng 15-30 phút là được. Gia vị truyền thống để chế biến gồm muối, thảo quả, địa điền, quế, lá chanh nướng thơm, tán nhỏ. Sau khi xào chín cho nước vào hầm nhừ.


Thắng cố khi ăn được múc ra từng bát nhỏ, ăn kèm với rau sống cùng 1 chén rượu ngô Bắc Hà (Ảnh – cungphuot.info)

Khi ăn thắng cố, chảo thịt vẫn đặt trên bếp đun, ăn đến đâu múc ra bát đến đó, có thể cho thêm ớt xào Bắc Hà vào để thêm vị cay. Nhấp chén rượu ngô Bản Phố cay nồng, gắp miếng thịt ngựa đã được hầm nhừ cho vào miệng, vị ngọt mềm của thịt ngựa kết hợp vị cay của ớt Bắc Hà, vi thơm ngai ngái của gia vị thắng cố sẽ tạo nên một mùi vị rất đặc trưng mà không món ăn nào có được.
Xôi 7 màu của người Nùng Dín


Xôi bảy màu Bắc Hà (Ảnh – joelwzoe)

Là món ăn chỉ có trong những ngày lễ tết, xôi bảy màu của người Nùng Dín ngoài giá trị ẩm thực còn mang giá trị tâm linh sâu sắc. Mỗi màu xôi là màu của một tháng trong cuộc chiến diễn ra từ tháng 1 đến tháng 7 năm xưa tại nơi đây. Màu xanh lá chuối là màu của mùa xuân, màu đỏ thẫm, biểu tượng cho máu của những người đã anh dũng hi sinh, màu vàng biểu tượng cho sự đau thương li tán, màu đỏ tươi biểu tượng cho chiến thắng hào hùng của người Nùng Dín…

Điều đặc biệt làm nên sự khác lạ của món xôi này chính là ở bản hợp tấu tài tình của màu sắc mà chỉ có những người phụ nữ khéo léo Nùng Dín mới có thể tạo ra. Không dung bất cứ một thứ phẩm màu cao cấp nào, chỉ tận dụng những lá cây rừng có sắn như lá cây đỏ đen, cây hoa vàng, lá câm hoa hay nghệ nhưng những người phụ nữ nơi đây bằng bí quyết gia truyền đã tạo ra một món ăn sinh động hấp dẫn mà không phải người đầu bếp nào cũng có thể làm được.
Cốm Bắc Hà


Cốm Bắc Hà (Ảnh – Duyen Nguyen)

Cốm Bắc Hà được làm từ loại thóc nếp được trồng trên nương đồi núi cao biệt lập cách xa lúa tẻ dùng làm cốm nếp có hương vị thơm ngon núi rừng. Cùng với nghề làm cốm truyền thống của người Tày Bắc Hà càng làm thêm hương vị món cốm ngon hơn. Đặc biệt cốm Bắc Hà không sử dụng phẩm màu và chất bảo quản. Cốm ăn trực tiếp, ăn với quả chuối hoặc chế biến thành chè cốm, bánh cốm, chả cốm, cháo cốm….tùy khẩu vị.
Bánh dày Bắc Hà


Bánh dày có thể tìm thấy trong các phiên chợ Bắc Hà (Ảnh – Thúy Bùi)

Bánh dày là món ăn đặc sản, hương vị Tết riêng của người Mông ở Bắc Hà. Bánh dày làm công phu nhưng để được rất lâu, ở Bắc hà có khí hậu mát mẻ nên có thể để bánh dày hàng tháng trời.

Bánh dày có thể mang đem rán nhưng ngon nhất là mang bánh dày nướng trên bếp than hồng, khi chin, bánh phồng lên, màu ngả vàng, tỏa ra mùi thơm ngây ngất hương vị vùng cao.
Mèn mén Bắc Hà


Mèn mén (bột ngô) được bán ở chợ Bắc Hà (Ảnh – Đỗ Thị Mai Hương)

Sau vụ thu hoạch ngô được phân loại, phơi khô cả vỏ đưa lên gác xép, xếp thành hàng, để dùng dần. Ngô được tẽ ra, quạt sạch rồi say nhỏ bằng cối đá. Xay ngô đòi hỏi sự công phu và tốn thời gian. Khi xay phải có hai người, một người kéo tràng, một người đứng bỏ hạt. Ngô xay ra đảm bảo nhỏ hơn hạt tấm, đều để dễ đồ. Khi đồ cho bột ngô vào chõ, rắc đều một chút nước đậy kín, đặt lên chảo nước rồi đun chờ có mùi thơm toả ra là cơm chín. Cẩn thận hơn, người ta làm đồ hai lượt. Lượt thứ nhất chưa chín hẳn. Đổ ra xảo, đánh tơi, chờ nguội bớt, rồi rẩy chút nước, cho lại vào chõ đồ lượt thứ hai. Cơm bột ngô háp người ta quen gọi là mèn mén.
Bánh đúc ngô Bắc Hà


Bánh đúc ngô Bắc Hà (Ảnh – Minh Vương MT)

Nhiều người dân thành thị biết đến bánh đúc được chế biến từ bột gạo, nhưng bánh đúc ngô thì chỉ ở vùng cao mới dễ dàng tìm thấy. Lên chợ Bắc Hà ngày xuân, du khách sẽ được thưởng thức món bánh đúc ngô dân dã được đặt trong những chiếc chậu lớn. Khi có khách, người bán mới cắt thành từng miếng nhỏ, vừa ăn, thơm thơm vị ngô rất thú vị.
Gà nướng mắc khén Bắc Hà


Gà nướng mắc khén các bạn có thể ăn ở nhà hàng Thung lũng hoa Thải Giàng Phố (Ảnh – Nguyễn Hoàng Sơn)

Không giống những món gà nướng thông thường khác, gà nướng mắc khén là một món ăn khá mới nhưng rất được thực khách ưa chuộng khi đến Bắc Hà, Lào Cai bởi độ thơm của gia vị và độ ngọt của thịt gà. Loại gà ngon nhất được lựa chọn là gà đồi khoảng 1 – 1,5 kg không quá non nhưng cũng ko già để thịt gà mềm và ngọt. Gia vị được dùng để nướng cũng khá đặc biệt, gồm hạt mắc khén dã nhỏ trộn lẫn ớt, rau thơm, muối, lá chanh, gừng, sả… và một số gia vi khác được sát lên da bên ngoài con gà để thịt được đậm và thơm hơn. Cuối cùng gà được bọc trong một lớp lá chuối, sau đó lấy than phủ lên giữ nhiệt độ luôn nóng khoảng 30 phút là gà chín. Loại gia vị chấm thích hợp nhất với món gà nướng là hạt mắc khén dã nhỏ trộn với muốn, ớt, rau thơm dã nhỏ cộng thêm một chút nước gà.
Rau củ khởi Bắc Hà

Nếu đã từng một lần đến Bắc Hà, Lào Cai và thưởng thức ẩm thực nơi đây thì chắc hẳn du khách không còn xa lạ với những món ăn nổi tiếng như: thắng cố, rượu ngô, phở chua, gà đen, lợn bản…nhưng có lẽ không phải ai cũng từng được thưởng thức món rau “củ khởi” nơi đây, một loại rau chỉ có vào mùa thu (tháng 9-10) trên mảnh đất Bắc Hà, không chỉ là món ngon hấp dẫn mà rau củ khởi còn là một vị thuốc quý trong Đông y.

Rau củ khởi còn gọi là rau khởi tử thường mọc dại trong tự nhiên và là một vị thuốc quý, có tác dụng giải nhiệt, giải độc vô cùng hiệu quả. Cây củ khởi thân nhỏ, cao từ 50cm đến 150cm, cành nhỏ, uốn cong cần câu, thỉnh thoảng có gai ngắn mọc ở kẽ lá. Lá mọc so le, có khi mọc vòng, phiến lá nhỏ hình mũi mác, cuống ngắn.
Đặc sản Bắc Hà

Một số loại đặc sản ở Bắc Hà mà các bạn có thể mua về làm quà khi đi du lịch Bắc Hà. Với một số món ăn của người dân Bắc Hà, thường không có sẵn mà bạn phải nhờ người hỏi mới có thể mua được nhé.
Chó Bắc Hà


Chó Bắc Hà là giống chó quý của Việt Nam (Ảnh – Ngoc Phap)

Nói trước, chó Bắc Hà từ lâu vốn nổi tiếng như một đặc sản từ Bắc Hà của những người yêu chó. Tất nhiên, món đặc sản này chỉ để nuôi chứ không để ăn nhé. Chó có nguồn gốc ở Bắc Hà được coi là giống chó quý. Có nhiều loại chó: Chó đại, chó lông xù, chó lông dài, chó cộc đuôi… Loại nào cũng to lớn, tinh khôn và đặc biệt là rất trung thành, biết nghe lời chủ nên được nhiều dân chơi khắp nơi tìm mua về nuôi.
Mận hậu Bắc Hà


Đừng quên mang một túi mận hậu Bắc Hà làm quà khi từ cao nguyên trắng trở về nhé (Ảnh – Lê Thu Hà)

Ở các tỉnh thuộc biên giới phía Bắc nước ta, đâu cũng thấy cây mận, mận Lào Cai, Lạng Sơn có màu hồng đỏ, mận Bắc Hà có vỏ màu xanh, mỗi loại mận đều có hương vị riêng và sắc màu khác nhau, song giống mận ngon nhất, đẹp mã nhất vẫn là giống mận trồng ở đất Bắc Hà. Từ tháng giêng âm lịch, cả thung lũng Bắc Hà với diện tích rộng 30km2 nở trắng hoa mận, đất trời Bắc Hà như trong huyền thoại. Qua Cổng trời, người và ngựa cứ bồng bềnh như trôi trong mây trắng. Khác với mận Lạng Sơn khi chín quả mới đỏ, mận hậu Bắc Hà không biến đổi màu vỏ ngoài, quan sát kỹ mới nhận ra lúc thu hái quả mận hơi ngả sang màu vàng nhạt. Trông cứ tưởng quả xanh nhưng khi bổ đôi, ruột quả mận mới phô sắc vàng. Điều khác biệt giữa mận Bắc Hà với các giống mận khác, có lẽ là độ róc hột. Ngoài ra, vị ngọt của mận hậu làm cho người ăn sau khi nuốt xong miếng cuối khá lâu mà như vẫn còn miếng mận trong miệng. Có lẽ vì thế mà người ta đặt tên nó là mậu hậu.
Rượu ngô Bắc Hà


Rượu ngô Bắc Hà chỉ ngon khi được nấu ở Bản Phố (Ảnh – FB Rượu ngô Bản Phố/ Rượu thóc người Dao)

Rượu ngô Bản Phố hay còn gọi là rượu ngô Bắc Hà là một thứ rượu ngon đặc sản của người Mông ở Bản Phố, cao nguyên Bắc Hà, Lào Cai. Cùng với rượu Táo Mèo và rượu San Lùng, rượu ngô Bản Phố là các danh tửu của Lào Cai. Rượu Bản Phố có màu trong như nước suối, lúc mới uống nghe hương vị thơm nồng, sau đó là cảm giác êm dịu. Rượu ngô nơi đây say lâu nhưng không làm người ta ngu muội mà cảm giác vẫn sảng khoái.


Rượu ngô Bản Phố nấu từ nước lấy từ suối Hang Dế. Rượu ngô Bản Phố hương thơm thì nồng nàn, quyến rũ, uống vào không gắt, không chua. Ngô dùng nấu rượu Bản Phố không phải trồng ở nương rẫy hoặc thung lũng, mà ở trên núi đá cao heo hút, đặc biệt là giống ngô vàng trồng ở xã Lùng Phình (Bắc Hà) cho ra nhiều rượu có hương thơm nồng rất ngon. Loại ngô này cho bắp chắc, vàng, năng suất không cao, bù lại hạt mềm, bùi và rất giàu dinh dưỡng.


Rượu ngô Bản Phố được nấu bằng men từ cây Hồng Mi (Ảnh – Pham Pham Thi Hang)

Sau khi thu hoạch, ngô được giữ nguyên bắp, phơi khô và bảo quản để nấu rượu dần. Bí quyết tạo nên sự khác biệt của rượu ngô Bản Phố với các loại rượu khác là lên men bằng bột bông của cây “pa”, còn gọi là cây Hồng Mi. Người H’Mong dùng hạt này đem xay nhỏ như bột rồi trộn với nước rượu đầu và nước sôi, nhào thật nhuyễn, nắm thành quả đặt trên rơm và phơi ở nơi ít nắng, thoáng gió đến khi những quả men khô, chuyển thành màu trắng y như chiếc bánh bao thì mang bỏ vào thúng, rổ để lên gác bếp bảo quản để dùng dần.

Người Mông nơi đây cho rằng uống rượu Bản Phố vào buổi sáng sẽ có thêm sức mạnh, tựa như có một vị thần dũng mãnh hỗ trợ làm việc đồng áng suốt ngày không cảm thấy mệt mỏi. Nếu uống vào buổi tối, cùng với bằng hữu, rượu như có sợi dây vô hình ràng buộc tình yêu thương khăng khít, trong lòng mọi người trào dâng lời hay, ý đẹp, nói lên được những điều mới mẻ, ý nghĩa thấm sâu và hào hứng mà những lúc khác không có rượu chưa nói được
Thịt gừng của người Nùng Dín

Hàng năm, cứ mỗi dịp tết đến, người Nùng Dín lại mổ lợn đón Xuân. Dù lợn to hay bé, mỗi nhà cũng phải chuẩn bị thịt để chế biến nhiều món ăn trong ngày tết. Ngoài món thịt làm nhân bánh thì người Nùng Dín còn làm món thịt gừng ‘tiếng Nùng Dín gọi là Nứt sinh’. Món ăn này rất bình dị, chế biến đơn giản nhưng có hương vị riêng, từ lâu là thức ăn quen thuộc của dân tộc này. Để làm món thịt gừng, người Nùng Dín tận dụng tất cả các loại xương như xương sống, xương sườn và thủ tươi nguyên không được rửa qua nước đem băm nhỏ, rồi rửa một lượng khá nhiều gừng giã nhỏ vắt bớt nước. Sau đó, trộn tất cả xương băm, gừng, muối với nhau, bóp sao cho thật nhuyễn. Khi bóp người ta còn pha thêm một chút rượu vừa phải để bảo quản và giữ được sự tươi sống của thức ăn. Thịt được cho vào loại chum có men bóng rồi đổ nước (không để cạn nước ở vành chum), giữ nhiệt độ để tránh thức ăn chuyển màu. Sau đó, đậy kín miệng chum bằng tấm ni lông, buộc chặt, khi nào dùng mới lấy ra nấu chín tuỳ theo bữa. Người Nùng Dín thường ăn món thịt gừng theo hai cách là hấp hoặc nấu. Nếu hấp thì có thể cho thêm một chút nước, hạt tiêu, rau thơm thì món ăn sẽ toả mùi thơm hấp dẫn hơn nhiều. Nếu nấu thì đổ thêm một lượng nước tương xứng với lượng thức ăn đun chín tới, cho gia vị như mì chính, hạt tiêu hoặc rau cần tây. Kể cả người già hay trẻ nhỏ không ăn được xương thì trộn cơm với nước thịt này cũng xuýt xoa ngon miệng. Ai đã từng thưởng thức món ăn Nứt sinh của người Nùng Dín sẽ không quên được hương vị của nó bởi vị ngọt của thịt xương quyện với cái mặn đậm đà của muối, chất cay nóng của gừng già, phảng phất vị thơm của rượu ngô.
Thịt lợn muối

Thịt lợn từ lâu là một món ăn quen thuộc dân dã đối với người dân Việt Nam và đây cũng là loại thực phẩm có nhiều cách chế biến món ăn nhất. Trong các món ngon được chế biến từ thịt lợn thì thịt lợn muối là một trong những món ngon trong danh mục ẩm thực của đồng bào vùng cao Lào Cai. Cách chế biến món thịt lợn muối hết sức đơn giản với những gia vị có sẵn trong vườn nhà. Gia vị của thịt lợn muối bao gồm các loại lá như lá quế, lá mít, lá trầu không, kèm theo ớt tươi, giềng và rượu cái nếp. Tất cả các loại lá đều được phơi khô và giã nhỏ, thịt lợn được thái vừa miếng rồi đổ rượu cái ướp cùng muối thật mặn và trộn lẫn các loại lá gia vị khô đã được giã nhỏ sau đó cho thịt vào hũ hoặc lọ để từ một đến hai tuần là có thể sử dụng được.

Khi sử dụng thịt lợn muối có thể rang hay nướng tuỳ theo khẩu vị của từng gia đình. Khi ăn, chúng ta có những cảm giác khác nhau. Có vị cay của giềng và ớt, vị thơm của quế, vị hơi chát của lá mít và lá trầu không. Đồng thời, một vị đặc trưng của thịt lợn muối là vị chua hoà lẫn vị mặn của muối, miếng thịt giòn và rắn chắc. Thịt lợn muối làm giảm đi độ béo và ngấy của mỡ. Khi ăn, chúng ta có thể lấy lại cảm giác về vị giác khi đã ăn quá nhiều đồ ăn khác mà không có cảm giác ngon. Thịt lợn muối là món ăn dân dã của người dân vùng cao đặc biệt là người Tày ở Bảo Yên. Mặc dù là món ăn bình dị nhưng cũng được người dân vùng cao tiếp đãi khách quý như một món ăn truyền thống và bộc lộ tình cảm chân thành của đồng bào đối với khách.
Nấm chân chim ở chợ Bắc Hà

Nấm còn gọi là nấm phiến chẻ, là một sản phẩm độc đáo chỉ có ở Bắc Hà (Lào Cai), không những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn là một loại dược liệu quý. Vị ngọt của nấm khiến người ăn khó quên được hương vị của vùng cao này. Hình thái ngoài của nấm cũng dễ nhận biết, không có cuống, mũ dạng quạt – vỏ hến, đường kính từ 1 đến 3 cm, phủ lớp lông mịn mầu trắng xám, mép mũ hơi cuộn vào trong. Thịt nấm mầu trắng, mặt dưới là những phiến nấm, khi non mầu trắng, khi già mầu hồng thịt. Những gùi nấm nặng trĩu được các thiếu nữ Mông mang đến chợ bán thành một dãy riêng. Nấm được để trong gùi hoặc bày trên các tấm vải, trải trên thảm cỏ. Chẳng cần cân đo chính xác, các cô gái cứ đong từng bát đầy, bán với giá bình dân: hai nghìn đồng một bát. So với các loại rau xanh khác ở chợ, nấm chân chim bao giờ cũng được bán hết nhanh nhất. Nấm mua về đem xào hoặc nấu canh với thịt. Thưởng thức hương vị ngọt ngào của nấm, người ăn sẽ có kỷ niệm khó quên về Bắc Hà. Ngoài công dụng làm thực phẩm, nấm chân chim còn có nhiều lợi ích khác, được liệt vào loại dược liệu quý, là đối tượng nghiên cứu thực nghiệm về sinh học, như sinh lý học và di truyền học.
Các lễ hội tại huyện Bắc Hà
Đua ngựa Bắc Hà


Lễ hội đua ngựa Bắc Hà (Ảnh – Mạc Kỳ Như)

Đua ngựa là môn thể thao dân tộc độc đáo của huyện Bắc Hà từ xưa. Vào xuân, ở các thôn, bản vùng cao thanh niên trai tráng người Mông, Tày, Nùng thành từng đoàn đi hội xuân …họ thường rủ nhau đua ngựa, ai đến đích trước thì bữa tiệc hôm đó được ngồi mâm trên. Trước năm 1945, giải đua ngựa ở Bắc Hà thường được tổ chức vào mùa xuân, đường đua lấy điểm xuất phát từ ngã ba chợ cũ và đích là bãi đất trống trước dinh thự Hoàng A Tưởng. Các kỵ sĩ khi đến đích phải nhảy xuống bắn 5 phát súng vào bia sau đó lên cướp quả cầu đỏ và lại nhảy lên ngựa phi quay lại điểm xuất phát. Đến mùa xuân năm 1980, Huyện đội (Ban chỉ huy quân sự) Bắc Hà tổ chức giải đua ngựa, bắn súng chọn kỵ sĩ, xạ thủ giỏi. Lúc đó, Bắc Hà không có nhiều ngựa nên hầu hết nhà nào có thanh niên, có ngựa đều tham gia.Giải đó có hơn 50 kỵ sỹ người Tày, Nùng, Dao, nhiều nhất là người Mông tham gia đua ngựa, bắn súng. Đại úy Lý Seo Thống – Đội trưởng đội quân lương – Ban chỉ huy quân sự huyện Bắc Hà lúc bấy giờ giành giải nhất. Vào năm 2007 lễ hội đua ngựa truyền thống được khôi phục lại nhằm hưởng ứng chương trình du lịch về cội nguồn của 3 tỉnh: Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ, là điểm nhấn thu hút khách du lịch đến Bắc Hà và Lào Cai. Năm 2008 giải đua ngựa truyền thống Bắc Hà được mở rộng với quy mô cấp tỉnh và đưa vào chương trình du lịch về cội nguồn hàng năm của 03 tỉnh Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ. Hiện nay lễ hội đua ngựa Bắc Hà thường được tổ chức hàng năm vào khoảng tháng 5, 6.
Lễ hội rước Đất, rước Nước của người Tày ở Bắc Hà


Lễ hội rước đất rước nước, tuần văn hóa Bắc Hà 2008 (Ảnh – UBND Huyện Bắc Hà)

Lễ hội rước Đất, rước Nước của người Tày – Bắc Hà diễn ra vào ngày 15 tháng giêng hàng năm để cầu xin Mẹ Đất, Mẹ Nước phù hộ cho đất luôn màu mỡ, cầu cho nguồn nước không bao giờ cạn, giúp dân bản có cuộc sống no đủ quanh năm. Từ sáng sớm, dân làng đã cử một đoàn người gồm: thầy cúng, đội trống, chiêng, khèn và các cô, các chị (là những người chăm chỉ làm ăn, có cuộc sống gia đình yên bình khoẻ mạnh)… đi lên ngọn núi Pản Phố – nơi có nguồn nước trong nhất bản – rước hồn Đất, hồn Nước về dự hội. Đi đầu đoàn rước là thầy cúng. Thầy là người giữ vai trò làm sứ giả để giao tiếp với các vị thần linh. Trong tay thầy cầm cây nêu – biểu tượng của sự sinh sôi, nảy nở – rước đến địa điểm diễn ra lễ hội.Tiếp theo là kiệu rước Nước và các mâm lễ. Nước được đựng trong hai ống bương to, tượng trưng cho ống bố, ống mẹ. Tiếp đến là kiệu rước Đất – hồn mẹ Đất được lấy từ trên đỉnh núi cao thiêng liêng. Sau đó là đến các mâm lễ để dâng các vị thần linh. Lễ vật gồm một mâm quả còn, bên trong các quả còn đựng các loại hạt giống do các cô, các chị kỳ công làm ra, các mâm xôi ngũ sắc, gà luộc, hoa quả… đều là những sản vật tinh tuý của mùa màng – thành quả sản xuất của dân bản trong năm. Đội chiêng trống đi hai bên thầy cúng nổi chiêng trống để thầy giao linh với các vị thần. Địa điểm tổ chức lễ hội là cánh đồng rộng của bản. Khi các đoàn rước tới nơi, ba hồi kèn trống nổi lên vang động đất trời, thấu đến chín tầng cao xanh như báo cho Trời – Đất biết: Ngày hôm nay dân làng mở hội. Thầy cúng thực hiện nghi lễ cầu khấn. Tiếp đó, thầy cúng phun nước làm phép để xua các điều xấu, xua quỷ dữ không cho về quấy phá dân bản. Rồi thầy tung lộc (ngô, lúa) của thần linh cho dân bản, những người dự hội ai cũng cố gắng nhận cho được vài hạt thóc, hạt ngô đem về nhà làm khước may mắn để nhà mình vụ sau ngô sai hạt, lúa sai bông. Sau phần lễ nghi trên, mọi người bước vào phần hội với những màn xoè điệu nghệ của các cô gái, chàng trai. Khi các màn xoè kết thúc là các trò chơi dân gian như kéo co, đẩy gậy, chọi gà, chọi trâu (bằng bắp bi chuối và măng), ném còn…bắt đầu Dù là ngày hội của người Tày nhưng các dân tộc khác trong vùng cũng đến dự rất đông vui.
Múa xoè Tả Chải – Bắc Hà

Cũng như nhiều vùng khác, người Tày xã Tả Chải (huyện Bắc Hà) mở hội để cúng Thần Nông (vị thần cai quản ruộng nương), đồng thời cũng là dịp tổ chức vui chơi cho dân bản. Sáng sớm ngày rằm tháng Giêng hàng năm, khi ông mặt trời nhô lên, là lúc mọi người đang háo hức dự hội, thì ở ngoài đồng tiếng trống, tiếng chiêng vang rộn khắp núi rừng giữa tiết xuân ấm áp. Trong ngày hội, phần lễ tương đối đơn giản. Giữa bãi rộng, người ta dựng lên một cây nêu bằng cây bương to, có gắn một vòng tròn dán giấy đỏ (biểu tượng mặt trời). Dưới châncây nêu là những mâm lễ của làng và của các gia đình thành kính dâng lên cúng thần, cầu mong cho mùa màng tốt tươi, thóc lú đầy sàn, trâu ngựa lợn gà đầy chuồng. Sau lễ cầu khấn, ông chủ lễ hội gióng lên hồi chiêng khai mạc. Tiếng trống, tiếng chiêng tức thì bừng bừng thúc giục, mời gọi. Một vòng xòe được hình thành do những bà, những chị kết lại, rồi một người, hai người rời đám đông nhập vào. Tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng làm tan biến cái rụt rè ngượng ngung, cuốn mọi người vào vòng xoè tình bạn. Tay trong tay, mắt trong mắt, vòng xoè rộng dần, rồi mở thành hai vòng, ba vòng, hết điệu này sang điệu khác và kéo dài trong suốt nhiều ngày lễ hội. Xoè Tà Chải có nhiều điệu phán ánh phong tục, tập quán sinh hoạt của đồng bào Tày vùng này.Bắt đàu từ xoè tập hợp, làm quen, gặp gỡ có tính cộng đồng, đến giao lưu tình cảm của đồng bào, tiếp theo là xoè đôi, xoè bốn (đồng cảm), chạm vai (tỏ tình) rồi điệu bắt cá gieo ngô, sàng đẩy (lao động sản xuất )và cuối cùng là xoè chào hẹn. Cùng với những hoa thơm quả ngọt ở Bắc Hà, xoè Tả Chải đã có mặt ở nhiều sàn diễn trên đất nước, được hưởng ứng nhiệt tình của người hâm mộ và đã giành được nhiều huy chương. Nhịp xoè hồn nhiên, duyên dánh như những con người và thiên nhiên xứ xở này đang rủ mời bạn bè gần xa đến để nối rộng vòng tay.
Lễ hội Say sán Bắc Hà (Lễ hội Gầu tào)


Lễ hội gầu tào của người Mông thường diễn ra vào dịp mùa xuân (Ảnh – Pham Bang)

Mỗi khi tết đến, khắp núi rừng hoa mận, hoa đào khoe sắc cũng là lúc đồng bào vùng cao Bắc Hà tổ các lễ hội đầu xuân để cầu mong may mắn và cho những vụ mùa bộ thu. Say sán là một lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân gian của người dân vùng cao. Thường lễ hội Say sán được tổ chức từ ngày mồng 2 đến mồng 6 tết theo khu vực cụm xã nơi có nhiều đồng bào người Mông, Tày, Nùng … sinh sống. Địa điểm tổ chức lễ hội Say sán được đặt ở một vị trí linh thiêng và thuận lợi cho mọi người tham gia các trò chơi dân gian, như múa khèn, đánh quay, múa võ, kéo co, đẩy gậy… Người dân đến với lễ hội Say sán vừa để vui xuân cầu mong may mắn, vừa để gặp gỡ bạn bè, chúc nhau những chén rượu ngô nồng thắm.
Một số lịch trình đi phượt Bắc Hà


Thị trấn Bắc Hà (Ảnh – bingao89)

Nguồn: Cùng Phượt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét